Không chỉ sâm mà cái gì cũng vậy, “đồ bổ” cần dùng với đúng người, đúng thời điểm, đúng liều lượng.
Để đảm bảo cho người dùng được an toàn, hiệu quả, các trường hợp sau đây không được dùng nhâm sâm độc vị: chỉ có nhân sâm, không có chất khác:
1. Người bị thường phong cảm mạo, phát sốt
Khi bị cảm mạo, bất kể là do cảm nhiễm virút hay nhiễm vi khuẩn gây nên, đều có biểu trưng ngoại cảm. Trị liệu lấy sơ phong tán hàn hoặc thanh nhiệt giải biểu, để trừ bỏ ngoại tà. Nhân sâm bổ khí, có thể làm cho ngoại tà trệ lưu trong cơ thể không thể phát tiết ra ngoài được, ảnh hưởng đến hiệu quả trị liệu, kéo dài bệnh tình. Cho nên người cần phải uống dài ngày nhân sâm thì trong thời gian bị cảm mạo cần phải tạm thời ngừng không uống.
2. Những người bị bệnh gan mật cấp tính
Viêm gan truyền nhiễm cấp tính, viêm túi mật cấp tính, bệnh sỏi mật, xuất hiện đau sườn, đau bụng, hoàng đản, phát sốt, thì đó đều là gan mật bị thấp nhiệt tăng chứa làm trở ngại, vì thế khí không lưu thông thanh thoát được. Trị liệu là lấy thanh lợi thấp nhiệt, lí khí đạo trệ làm chính. Nếu uống nhân sâm thì sẽ lại trợ thấp sinh nhiệt, làm cho khí trệ uất kết, làm cho chứng bệnh nặng thêm.
3. Những người viêm dạ dày và ruột cấp tính, bị nôn mửa, đau bụng, đi ngoài
Bệnh này thuốc thấp nhiệt tích trệ. Trị liệu cần tiêu thực đạo trệ, hoà vị thanh trường, không nên ăn bồi bổ, càng không nên dùng nhân sâm lúc này, nếu không, dạ dày và ruột càng bị lấp nhét thêm làm cho bệnh tình nặng lên chứ không ích bổ gì.
4. Những người bị viêm loét bốc dạ dày cấp tính và xuất huyết
Đau dạ dày là chứng viêm loét ở bộ phận dạ dày, dịch vị ra quá nhiều, dạ dày bị co giật gây nên. Trung y gọi là do khí trệ vị hoá mà sinh ra đau, huyết nhiệt chạy lung tung mà sinh ra xuất huyết. Chữa trị cần phải lý khí hoà vị, lương huyết chí huyết. Thế mà nhân sâm thì lại bổ khí, làm cho khí càng thịnh lên, huyết càng hưng vượng, thì như vậy rất khó làm giảm và làm hết đau.
5. Những bệnh giãn phế quản, bị lao, ho ra máu
Khi bệnh cảm nhiễm giãn phế quản, bị lao… thường có ho ra máu, trong đờm có máu, bị ho, có người sốt nhẹ, xuất huyết, biện chứng trong Trung y là âm hư hoả vượng, phế âm suy nhược. Trị liệu cần phải tư âm giáng hoả, lương huyết chỉ huyết. Vậy mà nhân sâm có thể làm thương âm động hoả, càng làm hiện tượng nôn ra máu trở nên nặng thêm.
6. Những người cao huyết áp
Đầu váng mắt mờ, mắt đỏ tai ù, nôn nóng hấp tấp, cuống cuồng, dễ nổi nóng, mạch huyền, đó là can dương lên cao, can hoả viêm tấy lên. Trị liệu cần phải bình can tiền dương, thanh tiết can hoả. Nhân sâm thì có cả 2 tác dụng đối với huyết áp: Liều lượng nhỏ sẽ làm tăng huyết áp, liều lượng lớn thì làm hạ huyết áp. Nhưng nói về mặt lâm sàng, nhân sâm có thể làm nặng thêm triệu chứng can dương can hoả, hơn nữa liều thuốc rất khó nắm vững được, cho nên người cao huyết áp nói chung không nên uống.
7. Những thanh niên hay bị di tinh, bị xuất tinh sớm
Phần lớn là do gan thận tương hoả vượng thịnh, âm hư là nhiều, thuỷ không dưỡng hoả. Nhân sâm có tác dụng như sex hormon, thúc đẩy kích thích tố tình dục có tác dụng nâng cao cơ năng sinh dục, những thanh niên bị di tinh và sớm xuất hiện, thường rất nhạy cảm và bị kích thích mạnh về tình dục, uống nhân sâm sẽ làm nặng thêm tình trạng di tinh và xuất tinh quá sớm.
8. Những người có bệnh về hệ thống miễn dịch
Các bệnh tự thân miễn dịch như ban đỏ, mụn nhọt, viêm khớp loại phong thấp, bệnh da cứng, phần nhiều thanh niên hay mắc, trong đó nữ thanh niên bị mắc nhiều hơn, thấy nhiều ở những người bị âm hư hoả vượng, bị ức chế miễn dịch của tế bào và miễn dịch của các chất lỏng trong cơ thể lên cao. Nhân sâm có thể tăng cường miễn dịch, làm cho kháng thể tăng lên nhiều, do đó kích thích kháng hạch kháng thể hoạt động, như vậy không thích hợp với những bệnh nói trên, vì thế những người bị bệnh đó không nên dùng.
9. Phụ nữ ở thời kỳ mang thai
Trong trường hợp bình thường, những người mang thai không cần phải uống thuốc gì cả. Nếu uống nhân sâm vào, thành phần của nhân sâm sẽ có thể thông qua tuần hoàn huyết dịch được thai nhi hấp thu một phần, làm tăng thêm thai hoả, rất bất lợi cho thai nhi và có thể dẫn tới tình trạng khó sinh.
10. Những trẻ nhỏ dưới 14 tuổi
Cơ thể thuần dương (khí dương còn non và giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động sinh lý của trẻ trong thời kỳ sinh trưởng), âm thường không đủ, dương thì dư thừa, không nên sử dụng nhân sâm để làm bổ dương khí của chúng. Nhân sâm có thể thúc đẩy sự phát dục của tuyến sinh dục phát triển, đó là điều rất nên tránh đối với trẻ nhỏ để tránh cho tuyến sinh dục sớm thành thục. Những trẻ sơ sinh, trẻ dưới 1 năm, lại càng cần kỵ uống nhân sâm, ngay kể cả thanh niên cũng không nên uống nó làm gì nếu không có chỉ định nghiêm ngặt của bác sĩ Trung y.
Để tăng cường dược tính đa dạng và hạn chế độc tính của nhân sâm, người ta thường dùng nhân sâm phối hợp với các vị thuốc khác như linh chi, nhung hươu, sữa ong chúa…
Xem thêm